Saturday, November 21, 2015

World Conference on Lung Cancer (WCLC) qua góc nhìn của các chuyên gia quốc tế - Kỳ 2

Kỳ 2: Các  chất đánh dấu sinh học (biomarker) và các thuốc nhắm mục tiêu (target agent)


Cách đây 2 tháng tôi đã có giới thiệu hội thảo này. http://nguyentuankhoi.blogspot.com/2015/09/ve-mot-hoi-thao-ung-thu-phoi-rat-quan.html . Để hiểu rõ cuộc hội thảo này quả thật không dễ dàng. May quá, bên lề hội thảo có các cuộc phỏng vấn với chuyên gia quốc tế nên mình không phải vận nội công để lãnh hội kiến thức "khó nuốt" và khô khan đó. Tôi sẽ lược ghi các nhận định của các vị này.
(Vì khả năng nghe tiếng Anh còn kém nên bài này chỉ ghi lại ý chính chứ không ghi nguyên văn)


Cuộc phỏng vấn với BS Greg Riely, associate attending physician at Memorial Sloan Kettering Cancer Center. Người phỏng vấn không phải là phóng viên tầm thường mà cũng là một chuyên gia có cỡ, BS Hossein Borghaei, associate professor at Fox Chase Cancer Center in Philadelphia, Pennsylvania.




Dr Borghaei: 
Hội thảo kỳ này có nhiều thông tin về chất đánh dấu sinh học (biomarker) và các thuốc nhắm mục tiêu (target agent). Xin ông bàn luận về những thông tin này.
BS Greg Riely :
Trước đây chúng ta không hề nghĩ tới rằng ung thư phổi lại được phân loại dựa trên đột biến gen; giờ đây chúng ta đã bước vào kỷ nguyên với những hiểu biết rằng đột biến EGFR là yếu tố dự đoán đáp ứng điều trị và sau đó ALK được bổ xung cho hiểu biết của chúng ta.
Gần đây người ta phát hiện đột biến MET exon-14 skipping. Những dữ liệu từ ASCO 2015 cho thấy bn carcinoma tuyến, có đột biến này phần lớn đều đáp ứng với điều trị thuốc ức chế META như crizotinib hoặc cabozantinib. Tại WCLC LẦN NÀY CHÚNG TA CÓ SỐ LIỆU CẬP NHẬT LÀ TỈ LỆ ĐÁP ỨNG TỚI 80%
 Dr Paik và các cộng sự đã cập nhật về tần xuất của đột biến này. Trong 650 bn ung thư phổi không tế bào nhỏ đột biến MET exon-14 skipping xảy ra ở 4% bn. Những bn này đều có mô học sarcomatoid carcinoma, một dạng kháng hóa trị.
Ngoài đột biến MET exon-14 skipping, người ta còn lưu ý đến hiện tượng nhân đoạn gen MET (amplification). Nhân đoạn MET được quy định là tạo ra > 6 bản sao chép ( >6 copies), con số hơi cao. Trong số 1550 bn được tầm soát có 25 bn dương tính. Những bn điều trị  crizotinib at 250 mg twice daily. Tỉ lệ đáp ứng (ORR) được ghi nhận là 32%, tỉ lệ kiểm soát bệnh (disease control rate) (DCR) là 60%

Dr Borghaei: 
Những số liệu này thật hấp dẫn. Bây giờ chúng ta chuyển sang bàn về EGFR
 Dr Riely: Chúng ta đã biết nhiều điều về các thuốc ức chế EGFR ở những trường hợp có đột biến EGFR không tb nhỏ, không tb gai. Thuốc ức chế EGFR cũng được sử dụng rộng rãi ở các trường hợp tb gai và những bn không có đột biến EGFR. Tại ASCO2015 các số liệu của nghiên cứu LUX-Lung 8, các bn carcinoma tb gai tiến xa đã điều trị bước 1 nay được chia làm 2 nhánh erlotinib, hiện được xem là điều trị chuẩn, nhánh kia là afatinib. Afatinib cho thấy cải thiện quan trọng PFS và OS Trang blog này có đề cập đếng nghiên cứu này qua bài EGFR TKI thế hệ thứ II hơn thế hệ thứ I?
Một câu hỏi rất quan trọng cho nghiên cứu này là liệu có yếu tố phân tử nào khiến 2 nhánh không cân bằng hay không? Nhóm nghiên cứu của Pháp đã lấy 433 mẫu từ nghiên cứu LUX-Lung 8 và sử dụng phương pháp giải trình tự gen và thấy là chỉ có 2 trường hợp có đột biến EGFR chia đều cho 2 nhánh. Vì vậy ưu thế của afatinib so với erlotinib không do mất cân bằng phân tử giữa 2 nhánh nghiên cứu.


Dr Borghaei: Cũng đã có cập nhật kết quả nghiên cứu  LUME-Lung 1.
Dr Riely: LUME-Lung 1,  1314 bệnh nhân giai đoạn ung thư phổi không tế bào nhỏ  IIIB/IV NSCLC chia làm 2 nhánh: docetaxel/nintedanib hoặc docetaxel/placebo. Bất chấp điều trị trước đó, nhánh kết hợp  docetaxel/nintedanib cho kết quả tốt hơn.

Dr Borghaei: Kết quả nghiên cứu  SQUIRE, một kháng thể đơn dòng anti-EGFR, necitumumab, đã được trình bày. Xin ông cho biết thông tin.
Dr Riely: Nghiên cứu SQUIRE gồm những bệnh nhân ung thư phổi carcinoma tb gai chia làm 2 nhánh:
         gemcitabine/cisplatin,
         gemcitabine/cisplatin / necitumumab
Necitumumab là kháng thể đơn dòng người trên EGFR, một loại  immunoglobulin G1 (IgG1)
Nhánh có kết hợp necitumumab có kết quả tốt hơn, cải thiện được OS:  (HR = 0.84, P = .012)
Nghiên cứu này cũng cho thấy một số thông tin quan trọng liên quan đến xác định các biomarker để tiên đoán điều trị bằng kỹ thuật  fluorescent in situ hybridization (FISH) hoặc  immunohistochemistry (IHC).

Dr Borghaei: Chúng ta cũng thấy đột biến hiếm gặp RET.
Dr Riely: RET rearrangements gặp nhiều ở ung thư tuyến giáp, ở ung thư phổi chỉ gặp ở 1%  . Ở ASCO 2015 cho thấy tỉ lệ đáp ứng với điều trị cabozantinib ở bệnh nhân ung thư phổi không tế bào  RET rearranged là >30%. Tại WCLC lần này, Dr Alex (...nghe không rõ) và cộng sự đã phân tích hồi cứu ở các bệnh nhân có một trong các đột biến RET, ROS1, ALK hóa trị có pemetrexed  cho thấy tỉ lệ đáp ứng và  PFS  và hơn hẳn không có đột biến. Nhóm chứng so sánh lại là những bệnh nhân có đột biến KRAS. Các kết quả cho thấy tỉ lệ đáp ứng với hóa trị có pemetrexed là:
          Nhóm RET-positive là 45%,
          Nhóm ROS1  78%,  
          Nhóm KRAS 26%.

Dr Borghaei: Hội thảo cũng đề cập đến những khó khăn do đột biến KRAS ?
Dr Riely:

Dr Borghaei: Xin ông cho biết các dữ liệu
Dr Riely: Phân tích sống còn ở bệnh nhân (có đột biến KRAS) điều trị ceritinib cho thấy sống còn sau điều trị (Posttreatment survival) sẽ cao hơn ở những bệnh nhân thời gian ổn định bệnh dài nhất (the longest time to progression). Điều này cho thấy những bệnh nhân nào đạt được lợi ích do điều trị ceritinib sẽ có dự hậu tốt nhất.   .

Dr Borghaei: Các tác nhân mới nhắm vào ROS và ALK cũng có dữ liệu mới ?
Dr Riely: Vấn đề lớn ở bệnh nhân  ALK-positive là tỉ lệ di căn não cao, điều này thử thách việc điều trị. Các ALK inhibitors thế hệ sau như  ceritinib và alectinib dường như có tỉ lệ đáp ứng điều trị cao hơn do khả năng len lỏi tốt vào nhu mô não.
Ben Solomon và cộng sự khảo sát những bệnh nhân di căn não có ALK dương tính, tb gai được điều trị bước đầu với ceritinib  trong một nghiên cứu so sánh  crizotinib với cisplatin/pemetrexed. Lúc đầu tôi cứ nghĩ rằng hóa trị sẽ tốt hơn vì đã có những nhận định rằng ceritinib không vô hàng rào mạch máu não được.  Tuy nhiên, kết quả đáng ngạc nhiên  tỉ lệ kiểm soát bệnh (disease control rate) tại não cũ ceritinib là 85% hơn hẳn  cisplatin-pemetrexed là 45%  . 
Ngoài ba thuốc crizotinib, ceritinib, alectinib, một thuốc ALK/ROS inhibitor đang được phát triển là  PF-06463922. Tác nhân này đang ở pha 1, thiết kế nghiên cứu chú ý đến di căn não.


No comments: